Việc lựa chọn thuốc Cabozantinib Trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC) Dựa trên kết quả xét nghiệm sinh hóa máu AFP (Alpha-fetoprotein)  

29/09/2019

Việc lựa chọn thuốc Cabozantinib

Trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC)

Dựa trên kết quả xét nghiệm sinh hóa máu AFP (Alpha-fetoprotein)

 

Robin Katie Kelley, MD

 

Ngày 22 tháng 9 năm 2019

Kelley, Phó Giáo sư Y học lâm sàng

Trình bày những phát hiện tại Hội nghị thường niên lần thứ 13 của Hiệp hội Ung thư gan Quốc tế tại Chicago, Robin Katie Kelley, MD, đã lập luận rằng các kết quả tích cực đáng chú ý và đảm bảo nghiên cứu trong tương lai về phản ứng AFP và ít nhất một lĩnh vực để áp dụng ngay lập tức.

 

 

          Theo các kết quả nghiên cứu phân tích giai đoạn III của CELESTIAL, bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC) được điều trị bằng Cabozantinib có tỷ lệ đáp ứng AFP (Alpha-fetoprotein) cao hơn so với những người được điều trị bằng giả dược. 

          Kelley, xác định mức AFP (Alpha-fetoprotein) giảm trong hoặc sau khi điều trị, có liên quan đến khả năng sống sót được cải thiện ở bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC) được điều trị bằng các liệu pháp tại chỗ như: Hóa trị, cắt bỏ hoặc phẫu thuật. Trong Khoa Y học (Huyết học/Ung thư) tại Trung tâm Ung thư Toàn diện Gia đình Helen Diller thuộc Đại học California. Bà nói thêm rằng các bộ dữ liệu hạn chế từ các bệnh nhân được điều trị bằng các liệu pháp toàn thân, bao gồm các hồi cứu các bệnh nhân điều trị  Sorafenib bước đầu (Nexavar) hoặc Regorafenib dòng thứ hai (Stivarga) cho bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC), cũng cho thấy những phát hiện tương tự. 

          Trên các giai đoạn bệnh ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC), nồng độ AFP huyết thanh tăng cao cho thấy tiên lượng xấu. Các nhà điều tra hy vọng phản ứng AFP cuối cùng có thể đóng vai trò là dấu ấn sinh học cho hiệu quả điều trị. 

          Kết quả của thử nghiệm CELESTIAL trước đây cho thấy Cabozantinib cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót chung (HĐH) và sống sót bệnh không tiến triển (PFS) so với giả dược ở bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC) được điều trị trước đó, không phụ thuộc vào AFP cơ bản. Bệnh nhân đủ điều kiện nếu họ đã tiến triển sau ít nhất 1 và tối đa 2 liệu pháp toàn thân trước đó. Sau đó, họ được chọn ngẫu nhiên 2: 1 thành Cabozantinib 60 mg mỗi ngày so với giả dược phù hợp. Các khối u được đánh giá bằng phương pháp X quang bằng RECIST v1.1 cứ sau 8 tuần với điểm cuối chính là HĐH và điểm cuối thứ cấp của PFS2.

          Trong dân số nghiên cứu tổng thể, bệnh nhân được điều trị bằng Cabozantinib có hệ điều hành trung bình là 10,2 tháng so với 8,0 tháng với giả dược (HR, 0,76; 95% CI, 0,63-0,92; P = 0,005). Tương tự, PFS trung vị cũng được cải thiện với Cabozantinib (5,2 so với 1,9 tháng; HR, 0,44; 95% CI, 0,36-0,52; P<0,001)2.

          Sự khác biệt sống còn giữa các cấp AFP

          Đánh giá hiệu quả theo các mức AFP cơ bản, Cabozantinib đã cải thiện hệ điều hành và sống sót bệnh không tiến triển (PFS) so với giả dược trên một loạt các mức AFP cơ bản. Mức AFP cao hơn liên quan đến mức độ lợi ích lớn hơn với Cabozantinib so với giả dược3.

          Những dữ liệu này cho chúng ta biết là mức AFP cơ sở không dự đoán cho bất kỳ phản ứng khác nhau nào trên Cabozantinib. Thay vào đó, Cabozantinib cải thiện khả năng sống sót bệnh không tiến triển (PFS) và HĐH độc lập với AFP. Nói cách khác, điều này cho thấy rằng AFP cơ sở không phải là một dấu hiệu dự đoán cho phản ứng của Cabozantinib.

          Trong phân tích, mức AFP huyết thanh được đánh giá ở mức cơ bản và cứ sau 8 tuần trong quá trình điều trị. Điều quan trọng cần lưu ý là cả bệnh nhân và nhà cung cấp đều bị mù với kết quả AFP trung tâm.

          Những thay đổi về mức độ AFP được đánh giá ở những bệnh nhân có AFP cơ bản có thể đánh giá ≥20 ng/mL, có khả năng biến động ở mức độ thấp đối với bệnh nhân mắc bệnh gan mạn tính hoặc viêm gan virut. Điểm cắt này là tùy ý. Một mục tiêu của các nghiên cứu trong tương lai, nên tập trung vào việc xác định và xác nhận các điểm cắt cho phản ứng AFP.

          Một phát hiện phù hợp khác là những bệnh nhân có mức AFP cao hơn được điều trị bằng Cabozantinib có hệ điều hành và khả năng sống sót bệnh không tiến triển (PFS) ngắn hơn so với bệnh nhân trong nhóm AFP thấp.

 

          Hệ điều hành và khả năng sống sót bệnh không tiến triển (PFS) sau đó đã được phân tích so với phản hồi và tiến triển của AFP bằng cách sử dụng 2 lần cắt khác nhau. Phản ứng AFP được xác định là giảm ≥20% hoặc ≥50% so với đường cơ sở trong khi tiến trình AFP được xác định là tăng ≥20% hoặc ≥ 50% so với đường cơ sở. 

          Trong dân số nói chung, khoảng 70% bệnh nhân có AFP cơ sở tăng hoặc AFP cơ sở có thể đánh giá ≥20 ng/mL. Điều này phù hợp với phân phối AFP đã biết trong dân số ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC).

          Khoảng 50% được đánh giá cho phản ứng AFP ở tuần 8. 50% còn lại không thể đánh giá được, với 30% bị loại trừ vì họ có mức AFP <20 ng/mL ở mức cơ bản và thêm 20% bị loại trừ do AFP cơ sở ở trên Giới hạn định lượng (300.000 cho xét nghiệm này), tử vong hoặc bỏ sót mẫu máu ở tuần 8. Điều này có thể đã góp phần vào những hạn chế trong nghiên cứu. 

            Một tỷ lệ lớn bệnh nhân AFP giảm ở nhánh Cabozantinib (n = 236). Bệnh nhân nhóm giả dược (n = 111) có tỷ lệ tăng AFP lớn hơn. 50% bệnh nhân dùng Cabozantinib AFP giảm ≥20%; 28% bệnh nhân có AFP giảm 50%.

          Một tỷ lệ nhỏ hơn đáng kể bệnh nhân dùng giả dược (13%) có đáp ứng AFP giảm ≥20%, với một tập hợp con 5% có mức giảm ≥ 50%. Hơn hai lần nhiều bệnh nhân dùng giả dược có tiến triển AFP so với Cabozantinib (tương ứng 68% so với 31%). Sử dụng điểm cắt ≥50%, tỷ lệ tiến triển AFP tương ứng là 51% và 20%. Phản ứng nhỏ trên giả dược khiến các nhà điều tra chỉ tập trung vào nhóm Cabozantinib để phân tích thêm. 

          Các đặc điểm cơ bản của bệnh nhân được điều trị bằng Cabozantinib là tương tự nhau đối với cả nhóm đáp ứng AFP và nhóm không đáp ứng, với nam giới chiếm 79% ở cả hai nhóm và độ tuổi trung bình lần lượt là 62 và 63 tuổi. Khoảng 83% có sự lây lan ngoài luồng và/hoặc xâm lấn vĩ mô.

          Hệ điều hành trung bình dài hơn đáng kể trong nhóm phản ứng AFP ở mức 16,1 tháng so với 9,1 tháng ở những người không có phản ứng AFP (HR, 0,61; 95% CI, 0,45-0,84). Khả năng sống sót bệnh không tiến triển (PFS) trung vị cũng dài hơn đối với bệnh nhân có đáp ứng AFP so với những bệnh nhân không có đáp ứng (7,3 so với 4 tháng; HR, 0,55; 95% CI, 0,41-0,74). 

          Trên một phân tích đa biến bao gồm các yếu tố tiên lượng đã được thiết lập khác như tình trạng hiệu suất ECOG, AFP cơ sở, xâm lấn vĩ mô, lan truyền ngoài cơ thể, trong số các phản ứng khác của AFP có liên quan độc lập và đáng kể với sự cải thiện trong HĐH (HR, 0,60; P =0,0002) và PFS (HR, 0,56; P =0,0002).

          Bệnh nhân có đáp ứng AFP có thời gian điều trị lâu hơn ở mức 5,7 tháng so với 3,7 tháng đối với những người không có đáp ứng. Tỷ lệ ngừng thuốc là 13% ở cả hai nhánh thấp hơn so với tổng nghiên cứu. Tình trạng phản ứng của AFP cũng góp phần gây ra các sự kiện bất lợi tương tự như dân số nghiên cứu tổng thể. Một ngoại lệ đáng chú ý là tỷ lệ tiêu chảy, cao hơn một chút ở mức 17% ở nhóm đáp ứng AFP so với 10% ở tất cả các bệnh nhân. 

          Kelley cho biết các ngưỡng tối ưu hơn nữa để đánh giá AFP, điểm cắt và định nghĩa tối ưu cho phản ứng và tiến triển, các điểm thời gian tối ưu để đo lường phản ứng vẫn được xác nhận. Kết luận rằng AFP đáp ứng, bảo đảm đánh giá thêm như là một thay thế sớm cho phản ứng hoặc tiến triển để bổ sung cho các công cụ X quang hiện có trong khi trên Cabozantinib cũng như các liệu pháp hệ thống khác cho ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC) hiện có nhiều lựa chọn điều trị có sẵn để tiến triển cho dân số này.

Tài liệu tham khảo:

  1. Kelley RK, Bocobo AG, Gidel L, et al. Phản ứng và kết quả hiệu quả của Alpha-fetoprotein (AFP) trong thử nghiệm CELESTRIAL giai đoạn 3 của Cabozantinib so với giả dược trong ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển (HCC). Trình bày tại: Hội nghị thường niên lần thứ 13 của Hiệp hội Ung thư gan Quốc tế; Ngày 20-22 tháng 9 năm 2019; Chicago, IL. bit.ly/2m1pOR2.
  2. Abou-Alfa GK, Meyer T, Cheng AL. et al. Cabozantinib ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển và tiến triển. N Engl J Med. Cabozantinib ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển và tiến triển. 2018; 379 (1): 54-63. doi: 10.1056 / NEJMoa1717002.
  3. Kelley RK, Al-Khoueiry AB, Meyer T, et al. Kết quả theo mức alpha-fetoprotein cơ bản (AFP) trong thử nghiệm CELESTIAL giai đoạn III của Cabozantinib (C) so với giả dược (P) trong ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển trước đó (HCC). Ann Oncol. 2018; 29 (bổ sung 8; abstr 702P). doi: 10.1093 / anon / mdy282.085.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


(*) Xem thêm

Bình luận