Thuốc đích thế hệ 3 điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ

25/04/2019

"Vẫn còn hi vọng và các sự lựa chọn cho bệnh nhân ung thư phổi"

          OSIMERTINIB (Tagrix, Osicent, Osimert...) đã được chứng minh giúp con người sống lâu hơn đáng kể trong khi đó khối u không phát triển hoặc lan rộng. Dựa vào kết quả của các nghiên cứu lâm sàng, thời gian sống trung bình là 18,9 tháng khi dùng OSIMERTINIB và 10,2 tháng với các liệu pháp trúng đích EGFR khác, Erlotinib hoặc Gefitinib. Thời gian sống trung bình là số ở giữa trong nhóm được xếp từ thấp nhất đến cao nhất.

          OSIMERTINIB là một loại thuốc đươc kê theo đơn/toa điều trị ung thư phổi không tiểu bào (non-small cell lung cancer, NSCLC) đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể (di căn).

          OSIMERTINIB được dùng như một phương pháp điều trị đầu tiên nếu các khối u có gen thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (epidermal growth factor receptor, EGFR) bất thường.

          Bác sĩ sẽ chỉ định cho làm một số xét nghiệm để đảm bảo rằng OSIMERTINIB phù hợp với bệnh nhân hay không.

           Khi bệnh nhân được chẩn đoán bị ung thư phổi có thể tạo ra một cú sốc. Có quá nhiều điều làm bệnh nhân bận tâm ngay lúc này và sẽ có nhiều thông tin mới trong thời gian sắp tới. Mỗi bệnh nhân ung thư phổi có những nhu cầu khác nhau.

          Khi tìm hiểu thêm về kết quả chẩn đoán, bệnh nhân sẽ nghe nhiều từ ngữ mới. Giai đoạn ung thư và dấu ấn sinh học là hai thuật ngữ cần biết. Bởi vì chúng có thể ảnh hưởng đến những quyết định điều trị mà bệnh nhân và bác sĩ cùng nhau đưa ra.

          1. Các xét nghiệm để xác định giai đoạn ung thư:

          - Ung thư phổi không tiểu bào (NSCLC) có 4 giai đoạn chính.

          - Các giai đoạn này thường được mô tả bằng chữ số La Mã (giai đoạn I, giai đoạn II, giai đoạn III và giai đoạn IV). Chữ số càng nhỏ có nghĩa ung thư lây lan càng ít.

          2. Xét nghiệm dấu ấn sinh học: (xét nghiệm gen/xét nghiệm phân tử/xét nghiệm đột biến gen).

          Xét nghiệm để tìm các dấu ấn sinh học của ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) phổ biến:

          *EGFR

          *ALK

          *PD-L1

          *BRAF

          *ROS1

          Xét nghiệm để tìm các dấu ấn sinh học rất quan trọng vì nó sẽ giúp bác sĩ xác định phương pháp điều trị thích hợp. Việc này giúp bác sĩ hiểu loại ung thư nào bệnh nhân mắc phải và phương pháp điều trị nào hiệu quả nhất trong việc làm chậm hoặc chặn đứng quá trình phát triển của ung thư.

          Biết giai đoạn và dấu ấn sinh học của bản thân có thể đồng nghĩa với việc tìm được phương pháp điều trị được thiết kế riêng cho loại ung thư của bệnh nhân. EGFR là một trong những dấu ấn sinh học quan trọng nhất trong NSCLC EGFR viết tắt cho epidermal growth factor receptor (thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì). Nếu bệnh nhân dương tính với đột biến EGFR, có thể bắt đầu sử dụng OSIMERTINIB, một loại thuốc viên uống mỗi ngày một lần được thiết kế riêng để nhắm vào một số loại gen EGFR bất thường.

          Tác dụng phụ của OSIMERTINIB có thể xảy ra nghiêm trọng, có thể gây ra các vấn đề  ở phổi mà có thể dẫn đến tử vong. Hãy báo bác sĩ ngay nếu bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng về phổi mới hoặc trở nên tệ hơn, bao gồm khó thở, thở dốc, ho hoặc sốt.

          Thuốc OSIMERTINIB có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm các vấn đề về tim và suy tim.  OSIMERTINIB có thể gây ra các vấn đề về tim mà có thể dẫn đến tử vong. Bác sĩ cần kiểm tra chức năng tim của bệnh nhân trước khi bắt đầu dùng OSIMERTINIB và trong khi điều trị khi cần. Hãy báo bác sĩ ngay nếu có bất kỳ dấu hiệu và triệu chứng của vấn đề về tim nào sau đây: Cảm giác như tim đang đập thình thịch hoặc nhanh, thở dốc, sưng mắt cá chân và bàn chân, cảm thấy choáng váng.

          Liệu pháp trúng đích là một phương pháp điều trị nhắm vào một loại ung thư cụ thể. Các loại này tác dụng bằng cách ngăn chặn tín hiệu nó làm cho tế bào ung thư phát triển và lan rộng.

          Một bước tiến quan trọng trong việc điều trị ung thư phổi: Trong một nghiên cứu lâm sàng gần đây, OSIMERTINIB đã cho kết quả chưa từng thấy đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ có EGFR(+). Những người dùng OSIMERTINIB đã sống khi khối u không phát triển hoặc lan rộng trong thời gian sống trung bình là 18,9 tháng so với 10,2 tháng đối với những người dùng Erlotinib hoặc Gefitinib, cũng là những liệu pháp EGFR trúng đích. Những người này đã sống thêm gần gấp đôi thời gian khi khối u không phát triển hoặc không lan rộng.

Thuốc OSIMERTINIB điều trị ung thư phổi EGFR(+)

          Thuốc OSIMERTINIB là một loại thuốc thuộc liệu pháp trúng đích được gọi là thuốc điều trị ung thư bằng con đường ức chế enzyme tyrosine kinase (tyrosine kinase inhibitor, TKI thế hệ 3).

          Thuốc OSIMERTINIB được chấp thuận để điều trị cho những người mắc ung thư phổi không tế bào di căn với các loại gen EGFR bất thường nhất định.

          EGFR được tìm thấy trên bề mặt của một số tế bào, bao gồm những tế bào khỏe mạnh. OSIMERTINIB nhắm vào các loại gen EGFR bất thường nhất định và có thể làm chậm quá trình phát triển của tế bào ung thư để giúp không cho chúng lây sang các bộ phận khác của cơ thể.

          Thuốc OSIMERTINIB có thể dễ dàng thích hợp với thói quen hàng ngày của bệnh nhân. Thuốc viên thuận tiện uống mỗi ngày một lần. Một viên thuốc mỗi ngày, một lần bất kỳ lúc nào trong ngày, cùng hay không cùng thức ăn.

          Thuốc OSIMERTINIB có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm các vấn đề về mắt. Hãy báo bác sĩ ngay nếu có các triệu chứng của các vấn đề về mắt, có thể bao gồm chảy nước mắt, nhạy cảm với ánh sáng, đau mắt, đỏ mắt, hoặc thay đổi thị lực. Bác sĩ có thể chuyển bệnh nhân đến gặp bác sĩ chuyên khoa mắt (bác sĩ nhãn khoa) nếu bệnh nhân gặp các vấn đề về mắt khi dùng OSIMERTINIB.

          Giới thiệu về thử nghiệm lâm sàng:

          Thử nghiệm lâm sàng là một công cụ nghiên cứu quan trọng; các thử nghiệm này có thể giúp bác sĩ đánh giá xem thuốc có an toàn và hiệu quả không.

          Đôi khi, một phương pháp điều trị sẽ được so sánh với một phương pháp điều trị khác trong một thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng OSIMERTINIB gần đây đã thực hiện. OSIMERTINIB đã được so sánh với erlotinib hoặc gefitinib, các liệu pháp trúng đích EGFR khác.

          77% số người dùng OSIMERTINIB thấy khối u nhỏ lại...

          41 người có khối u di căn lên não trước cuộc nghiên cứu đã được đánh giá để xem mức ảnh hưởng của OSIMERTINIB đến các khối u trong não của họ. Nghiên cứu đã tìm thấy: 77% những người dùng OSIMERTINIB thấy khối u não nhỏ lại. 18% thấy khối u não hoàn toàn biến mất;

          63% những người điều trị bằng các liệu pháp trúng đích EGFR khác, Erlotinib hoặc Gefitinib, thấy khối u não nhỏ lại. Không ai thấy khối u hoàn toàn biến mất.

          Nếu bệnh nhân đang phải sống với ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn EGFR(+), bệnh nhân có thể đã đang áp dụng một liệu pháp trúng đích gọi là thuốc kháng ung thư bằng con đường ức chế enzyme tyrosine kinase (TKI). Tuy nhiên điều gì sẽ xảy ra nếu phương pháp điều trị của bệnh nhân không còn hiệu quả. Tiến triển của ung thư ở mỗi người đều khác nhau. Nếu điều này xảy ra, không có nghĩa là liệu pháp TKI ban đầu của bệnh nhân không thích hợp. Điều đó có nghĩa là tế bào ung thư đã tìm ra cách để phát triển bất kể phương pháp điều trị. Khi ung thư phổi EGFR(+) phát triển, nguyên nhân thường là do một đột biến gen mới. Đó là lý do tại sao cần phối hợp chặt chẽ với bác sĩ để biết các bước tiếp theo sẽ là gì nếu ung thư phổi của bệnh nhân thay đổi. Như vậy, bệnh nhân sẽ có sẵn kế hoạch và sẵn sàng đưa ra các quyết định đúng lúc.


(*) Xem thêm

Bình luận