Trung Quốc chấp thuận Osimertinib điều trị bước đầu Bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ không di căn hoặc di căn (NSCLC) có đột biến gen EGFR
Trung Quốc chấp thuận Osimertinib điều trị bước đầu
Bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ không di căn hoặc di căn (NSCLC)
có đột biến gen EGFR
Dave Fredrickson |
Ngày 04 tháng 9 năm 2019
Ông Dave Fredrickson, Phó Chủ tịch điều hành về ung thư, Oncology AstraZeneca (Công ty Dược phẩm sinh học đa quốc gia), đã chứng minh trong thử nghiệm Giai đoạn III mù đôi và ngẫu nhiên, cải thiện đáng kể về mặt thống kê và lâm sàng thông qua tỷ lệ bệnh nhân sống sót bệnh không tiến triển (PFS)
|
Thuốc được chỉ định là liệu pháp điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn (NSCLC), trong đó các khối u có đột biến gen của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) xóa exon 19 hoặc mất đoạn exon 21 (L858R).
Osimertinib là một loại EGFR-TKI thế hệ thứ ba, có tác dụng ức chế cả đột biến kháng EGFR và EGFR T790M, chống lại di căn hệ thống thần kinh trung ương (CNS). Thuốc dạng viên uống 40mg và 80mg mỗi ngày một lần.
Sự chấp thuận dựa trên thử nghiệm FLAURA giai đoạn III, trong đó Osimertinib ở bước đầu đã giảm 54% nguy cơ tiến triển hoặc tử vong so với trị liệu TKI tiêu chuẩn như: Erlotinib (Tarceva) hoặc Gefitinib (Iressa). Trong nghiên cứu mù đôi, tỷ lệ sống bệnh không tiến triển trung bình (PFS) là 10,2 tháng (95% CI, 9,6-11,1) đối với trị liệu chuẩn và 18,9 tháng (95% CI, 15,2-21,4) với Osimertinib (HR, 0,46; KTC 95%, 0,37-0,57; P <0,0001).
Thử nghiệm FLAURA đã chứng minh tiềm năng của Osimertinib là một tiêu chuẩn chăm sóc mới và là một lựa chọn điều trị bước đầu mới cho bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) ở Trung Quốc, trong đó khoảng 30% đến 40% được chẩn đoán là có đột biến EGFR (thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì).
Trong thử nghiệm FLAURA, 556 bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến gen EGFR tiến triển cục bộ hoặc di căn (chưa từng điều trị bằng TKI) được chỉ định ngẫu nhiên sử dụng thuốc Osimertinib (n = 279) hoặc TKI tiêu chuẩn (Erlotinib hoặc Gefitinib; n = 277). Bệnh nhân di căn não (CNS) được cho phép trong thử nghiệm và tất cả các bệnh nhân đã xóa exon 19 hoặc đột biến L858R. Điều trị bằng đường uống hàng ngày bằng Osimertinib 80mg, Gefitinib 250mg hoặc Erlotinib 150mg.
Nghiên cứu cho thấy:
Tỷ lệ sống bệnh không tiến triển trung bình (PFS) với Osimertinib mở rộng trên tất cả các nhóm con được chỉ định trước. Ở những bệnh nhân bị di căn hệ thần kinh trung ương (n = 116), tỷ lệ sống bệnh không tiến triển trung bình (PFS) với Osimertinib là 15,2 tháng (95% CI, 12,1-24,4) so với 9,6 tháng (95% CI, 7,0-12,4) với liệu pháp tiêu chuẩn (HR, 0,47; 95 % CI, 0,30-0,74; P= .0009). Ở những bệnh nhân không có di căn não (CNS) (n = 440), tỷ lệ sống bệnh không tiến triển trung bình (PFS) là 19,1 tháng (95% CI, 15,2-23,5) và 10,9 tháng (95% CI, 9,6-12,3), đối với Osimertinib và cánh tay kiểm soát (HR, 0,46; KTC 95%, 0,36-0,59; P<0,0001
Trên tất cả các bệnh nhân, tiến triển thần kinh trung ương xảy ra ở 6% được điều trị bằng Osimertinib so với 15% đối với Erlotinib và Gefitinib.
- Tỷ lệ đáp ứng khách quan với Osimertinib là 77% so với 69% đối với Erlotinib và Gefitinib. Thời gian trung bình của phản ứng với Osimertinib là 17,6 tháng so với 9,6 tháng ở nhánh so sánh.
- Trung bình chưa đạt được tỷ lệ sống sót chung, nhưng khi trưởng thành chỉ 25%, HR ủng hộ Osimertinib ở mức 0,63, giảm 37% nguy cơ tử vong (95% CI, 0,45-0,88; P= 0,0068). Tuy nhiên, những kết quả đó chưa được chứng minh là có ý nghĩa thống kê. Tại thời điểm phân tích, đã có 58 trường hợp tử vong ở nhánh Osimertinib và 83 ở nhóm đối chứng.
- Các tác dụng phụ phổ biến nhất ở mọi cấp độ (AE) là:
+ Tiêu chảy;
+ Khô da;
+ Viêm da dạng mụn trứng cá.
Nhìn chung, 33,7% bệnh nhân trải qua AE3 AE trong nhóm Osimertinib so với 44,8% đối với Erlotinib và Gefitinib. Bệnh nhân trong nhóm Osimertinib ít có khả năng ngừng điều trị vì AE (13,3% so với 18,1%).
Osimertinib đã được chấp thuận tại 74 quốc gia như: Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu trong điều trị bước đầu cho bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ không di căn hoặc di căn (NSCLC) có EGFR (+).
Hiện nay, việc điều trị bệnh nhân trưởng thành bị ung thư phổi không tế bào nhỏ không di căn hoặc di căn (NSCLC) có đột biến T790M./.
Tài liệu tham khảo:
Ramalingam S, Reungwetwattana T, Chewaskulyong B, et al. Osimertinib so với tiêu chuẩn chăm sóc (SoC) EGFR-TKI là liệu pháp đầu tay ở bệnh nhân (pts) với NFRLC tiến triển của EGFRm: FLAURA. Trình bày tại: Đại hội ESMO 2017; Madrid, Tây Ban Nha; Ngày 9-12 tháng 9 năm 2017. Tóm tắt LBA2-PR.
Xem thêm