FDA chấp thuận Capmatinib (Tabrecta) điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến MET exon14

26/05/2020

Ngày 06 tháng 5 năm 2020

Tabrecta (capmatinib) Non Small Cell ...

FDA chấp thuận Capmatinib (Tabrecta) cho những bệnh nhân bị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) di căn có đột biến MET exon14. 1 

Sự chấp thuận dựa trên những phát hiện ban đầu từ nghiên cứu GEOMETRY mono-1 giai đoạn II (NCT02414139), trong đó Capmatinib (Tabrecta) cho thấy tỷ lệ đáp ứng khách quan 67,9% (ORR; 95% CI, 47,6% -84,1%) bằng đánh giá độc lập (IR) ở những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) thay đổi MET exon14. 2

FDA đồng thời phê duyệt xét nghiệm CDO Foundation One (F1CDx) để sử dụng làm chẩn đoán đồng hành cho Capmatinib (Tabrecta) để phát hiện đột biến khối u dẫn đến bỏ qua MET exon 14.

Bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) là một bệnh phức tạp, với nhiều đột biến có thể khác nhau, nhà điều tra GEOMETRY của Ju chìen Juergen Wolf, MD, Trung tâm Ung thư tích hợp, Bệnh viện Đại học Cologne, cho biết trong một thông báo. Bỏ qua MET MET exon 14 là một trình điều khiển gây ung thư được biết đến. Với quyết định ngày hôm nay của FDA, giờ đây chúng ta có thể kiểm tra và điều trị dạng ung thư phổi đầy thách thức này bằng một liệu pháp nhắm mục tiêu, mang lại hy vọng mới cho những bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có loại đột biến MET exon 14.

Capmatinib (Tabrecta) là một chất ức chế MET mạnh và chọn lọc. Các đột biến được xác định trong khoảng 3% đến 4% của tất cả các bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) và những bệnh nhân này thường có tiên lượng xấu.

Capmatinib (Tabrecta) đang được kiểm tra qua một số đoàn hệ của thử nghiệm GEOMETRY; đoàn hệ 4 và 5b đã được trình bày tại Hội nghị thường niên ASCO 2019. Đoàn hệ 4 bao gồm các bệnh nhân được điều trị trước với các thay đổi MET exon14 trong cài đặt dòng thứ hai hoặc thứ ba (n = 69), trong khi đoàn hệ 5b bao gồm các bệnh nhân điều trị (n = 28).

Độ tuổi trung bình trên cả hai đoàn hệ là 71 tuổi và khoảng 75% bệnh nhân có tình trạng hoạt động ECOG là 1. Trong đoàn hệ 4, 15,9% bệnh nhân có di căn não so với 10,7% ở nhóm 5b. Liệu pháp phổ biến nhất trước đây được sử dụng là hóa trị liệu dựa trên bạch kim (88,4%).

Ở những bệnh nhân được điều trị trước, ORR bằng IR với Capmatinib (Tabrecta) là 40,6% (95% CI, 28,9% -53,1%). Hơn nữa, tỷ lệ kiểm soát bệnh (DCR) là 78,3% (KTC 95%, 66,7% -87,3%). ORR theo IR là 67,9% (95% CI, 47,6% -84,1%) cho bệnh nhân chưa từng điều trị và DCR là 96,4% (95% CI, 81,7% -99,9%).

Kết quả cũng cho thấy thời gian đáp ứng trung bình của IR là 9,72 tháng ở những bệnh nhân được điều trị trước và 11,14 tháng ở những người nhận được thuốc trả trước. Thời gian sống không tiến triển trung bình là 5,42 tháng trong nhóm được điều trị trước và 9,69 tháng cho những người được điều trị ở tuyến đầu.
Khoảng một nửa số bệnh nhân bị di căn não lúc ban đầu đã trải qua phản ứng nội sọ với Capmatinib (Tabrecta) (7 trên 13; 54%). Trong số những bệnh nhân này, 4 người có độ phân giải hoàn toàn các tổn thương não (31%) và DCR nội sọ là 92,3% (12 trên 13).

Bệnh nhân đã được điều trị trước bằng Crizotinib (Xalkori) hoặc bất kỳ chất ức chế cMET hoặc HGF nào khác, đều có EGFR hoặc ALK bất thường, có ý nghĩa lâm sàng hoặc bệnh tim không kiểm soát được, đã điều trị trước đó với các thuốc không thể ngừng ≥ tuần trước khi điều trị bằng Capmatinib (Tabrecta) đầu tiên và trong thời gian nghiên cứu, suy giảm chức năng đường tiêu hóa hoặc bệnh đường tiêu hóa, có thể được điều trị bằng bất kỳ enzyme nào - gây ra thuốc chống co giật và sự hiện diện hoặc tiền sử bệnh phổi kẽ hoặc viêm phổi kẽ được loại trừ khỏi ghi danh vào thử nghiệm.

An toàn, được đánh giá trên tất cả các đoàn hệ được khảo sát trong nghiên cứu, cũng bao gồm các bệnh nhân mắc MET NSCLC bị điều hòa (N = 334). Các tác dụng phụ liên quan đến điều trị độ 3 (TRAEs) xảy ra ở 31,1% bệnh nhân và tác dụng phụ cấp 4 (AE) được thấy ở 4,5% bệnh nhân. Các AE 3/4 phổ biến nhất là phù ngoại biên (7,5%) và mệt mỏi (3,0%). Các AE phổ biến nhất liên quan đến điều trị cấp độ là phù ngoại biên (41,6%), buồn nôn (33,2%), tăng creatinine máu (19,5%) và nôn (18,9%).

FDA trước đây đã cấp cho Capmatinib (Tabrecta) một chỉ định trị liệu đột phá để sử dụng như là phương pháp điều trị đầu tay cho bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) đột biến MET exon14. Sự chấp thuận nhanh chóng của Capmatinib (Tabrecta) trong cài đặt này phụ thuộc vào kết quả của một thử nghiệm xác nhận.

Ung thư phổi phổi ngày càng được chia thành nhiều tập hợp dân số được xác định phân tử với các loại thuốc đang được phát triển để nhắm vào các nhóm cụ thể này, ông Richard Richard Pazur, MD, giám đốc Trung tâm xuất sắc của FDA và giám đốc của Văn phòng bệnh ung thư tại FDA Trung tâm đánh giá và nghiên cứu thuốc, được nêu trong một thông cáo báo chí. Đây là sự chấp thuận đầu tiên dành riêng cho việc điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ mà không có khối u có đột biến dẫn đến MET exon 14 bỏ qua. Dân số bệnh nhân này hiện có một lựa chọn cho một liệu pháp nhắm mục tiêu.

 

Erlotinib Gefitinib Afatinib Osimertinib

Crizotinib Ceritinib Alectinib

Crizotinib Ceritinib Entrectinib

Crizotinib Capmatinib

Dabrafenib + Trametinib

Entrectinib L

 

Tài liệu tham khảo:           

1.Novartis công bố sự chấp thuận của FDA đối với chất ức chế MET Tabrecta ™ đối với ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) di căn với MET exon14. Xuất bản ngày 06 tháng 5 năm 2020.

2. Sói J, Setons T, Han JY, et al. Capmatinib (INC280) trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển đột biến MET exon14 (NSCLC): Dữ liệu hiệu quả từ nghiên cứu GEOMETRY mono-1 giai đoạn II. J On Oncol . 2019.



(*) Xem thêm

Bình luận