Các thuốc ức chế Tyrosine Kinase (TKI) trong ung thư phổi không tế bào nhỏ

09/05/2019

          Điều trị ung thư phổi đã có nhiều tiến bộ, đặc biệt giai đoạn tiến xa/di căn, việc nghiên cứu và tìm ra các thuốc mới, cá thể hóa điều trị và sử dụng điều trị đa mô thức (Hóa trị, xạ trị, phẫu thuật, điều trị nhắm trúng đích, miễn dịch…) trong điều trị.

Các thế hệ thuốc ức chế tyrosine kinase (TKI)

          Hiện tại, đã có ba thế hệ thuốc ức chế tyrosine kinase (TKI), việc phân chia thế hệ căn cứ vào thời gian ra đời, các đích nhắm đến trên bề mặt tế bào u.

Thế hệ thứ I

            Bao gồm các thuốc: Gefitinib (Geftinat; Iressa...), Erlotinib (Erlonat; Tarceva...) và Icotinib trong đó Gefitinib (Geftinat; Iressa...), Erlotinib (Erlonat; Tarceva...) được dùng phổ biến tại Việt Nam.

          Gefitinib (Geftinat; Iressa...): Lần đầu tiện được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (US Food and Drug Administration – FDA) chấp thuận vào 5/2003 trong chỉ định điều trị bước 3, phải hơn 1 thập kỷ sau đó vào 7/2015 nó mới được đưa vào chỉ định điều trị bước 1 trong ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn ở bệnh nhân có đột biến trên Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô (Epidermal Growth Factor Receptor – EGFR).

          Erlotinib (Erlonat; Tarceva...): Hơn một năm sau khi Gefitinib được chấp thuận thì vào 11/2004 FDA đồng ý chỉ định sử dụng Erlotinib trong điều trị bước 2 và bước 3 bệnh nhân (Non small cell lung cancer – NCLC) và chỉ định bước 1 được FDA đồng ý vào 5/2013.

Thế hệ thứ II

          Afatinib, Dacomtinib và Neratinib. Trong đó Afatinib (Afanix; Xovoltib...) được dùng phổ biến tại Việt Nam.

          Afatinib với các nghiên cứu trong chương trình Gungerif LUX-Lung đã lần đầu tiên được FDA chấp thuận vào 7/2013, một điều đặc biệt của thuốc này là nó cũng đã được FDA đồng ý cho sử dụng với bệnh nhân NSCLC typ tế bào vẩy đã thất bại với hóa trị nền tảng platium qua nghiên cứu LUX – Lung 8.

Thế hệ thứ III

 

 

 
 

          Thuốc Osimertinib (Tagrix; Tagrisso; Osicent; Osimert...): Là một thuốc mới, Osimertinib lần đầu tiên được FDA chấp thuận vào 11/2015 và ở thời điểm đó nó chỉ được chỉ điều trị bước 2 sau khi bệnh tiến triển với TKI thế hệ I cho bệnh nhân NSCLC có đột biến EGFR và mang đột biến T790M. Sau đó hiệu quả của Osimertinib tiếp tục được khẳng định qua nghiên cứu AURA 3 là một nghiên cứu nhãn mở, pha 3 đa trung tâm với trên 400 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến EGFR và mang đột biến T790M sau khi đã tiến triển với TKI bước 1. Nghiên cứu chia hai nhóm với tỷ lệ 2: 1 để bệnh nhân nhận Osimertinib (với liều 80mg mỗi ngày) hoặc Pemetrexed truyền tĩnh mạch (500 mg cho mỗi mét vuông da) cộng với Carboplatin AUC 5 hoặc cisplatin (liều 75mg mỗi mét vuông da) mỗi 3 tuần cho đến sáu chu kỳ; sau đó duy trì Pemetrexed.

          Kết quả nghiên cứu AURA 3:

          Thời gian sống; bệnh không tiến triển ở nhóm sử dụng Osimertinib dài hơn đáng kể so với điều trị Platinum kết hợp với Pemetrexed (10.1 tháng so với 4.4 tháng). Nghiên cứu phân tích dưới nhóm với các bệnh nhân có tổn thương di căn não. Trong số 144 bệnh nhân có tổn thương hệ thống thần kinh trung ương, thời gian sống; bệnh không tiến triển trung bình ở nhóm dùng Osimertinib kéo dài hơn so với những bệnh nhân dùng Platinum kết hợp với Pemetrexed (8,5 tháng so với 4,2 tháng)

          Nghiên cứu khác về Osimertinib

          Xu hướng hiện nay của các thuốc TKI là trả lời câu hỏi vai trò của nó ra sao trong điều trị bổ trợ với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm có đột biến gen EGFR.

          Nghiên cứu ADJUVANT là thử nghiệm pha III tiến hành tại Trung Quốc đã được trình bày tại ASCO 2017 tiến hành với hơn 200 bệnh nhân đã chứng minh vai trò của Gefitinib trong điều trị bổ trợ ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn II và IIIA có di căn hạch (N1, N2) đã cho thấy thời gian sống bệnh không tiến triển (Progression free survival – PFS) của nhóm sử dụng Gefitinib (Geftinat; Iressa...) cao hơn đáng kể so với nhánh bệnh nhân sử dụng hóa trị truyền thống (vinorelbine/cisplatin), lần lượt là 28,7 tháng và 18 tháng.

          Với Osimertinib thì sao: Nó cũng đang được thực hiện 1 nghiên cứu tương tự với các bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn Ib – IIIa sau khi phẫu thuật có hoặc không có hóa trị bổ trợ, kết quả nghiên cứu ADAURA này phải đến 2021 mấy được công bố, chúng ta hãy cùng chờ đợi kết quả.

          Sau những phương pháp điều trị nội khoa tryền thống như hóa trị, sự ra đời và phát triển của các thuốc nhóm TKI đã mang lại nhiều cơ hội hơn cho bệnh nhân ung thư phổi có đột biến gen EGFR với tính an toàn, hiệu quả và ít tác dụng phụ. Các nghiên cứu vẫn đang được thực hiện với mong muốn chứng minh hiệu quả của nhóm thuốc TKI khi bệnh ở giai đoạn sớm, hi vọng trong tương lai sẽ có kết quả khả quan.

          FDA chấp thuận Osimertinib (Tagrix; Tagrisso; Osicent; Osimert...): Điều trị bước một trong ung thư phổi không tế bào có đột biến EGFR nhỏ giai đoạn tiến xa/di căn mất đoạn exon 19 hoặc đột biến exon 21 L858R.

          Ngày 18/4/2018, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã chấp thuận Osimertinib (Tagrix; Tagrisso; Osicent; Osimert...): Điều trị bước một cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ đã di căn (NSCLC) có đột biến EGFR (Epidermal Growth Factor Receptor- thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì) mất đoạn exon 19 hoặc đột biến exon 21 L858R.

          Chấp thuận này dựa trên thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng (FLAURA, NCT02296125) tiến hành trên 556 bệnh nhân NSCLC có đột biết EGFR mất đoạn exon 19 hoặc đột biến exon 21 L858R, không thể phẫu thuật hoặc đã di căn, chưa từng nhận điều trị hệ thống trước đó cho giai đoạn tiến xa. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên theo tỉ lệ (1:1) vào 2 nhóm

          + Nhóm bệnh nhân điều trị Osimertinib 80 mg đường uống hàng ngày, một lần/ngày.

          + Nhóm bệnh nhân theo phác đồ điều trị chuẩn Gefitinib 250 mg hoặc Erlotinib 150 mg hàng ngày, đường uống, một lần/ngày.

          Trong số bệnh nhân theo phác đồ điều trị chuẩn, có 20% đã sử dụng Osimertinib như một liệu pháp điều trị ung thư tiếp theo.

          Ước tính trung vị thời gian sống; bệnh không tiến triển (PFS) ở nhóm điều trị bằng Osimertinib và nhóm điều trị tiêu chuẩn lần lượt là 18.9 tháng (Khoảng tin cậy 95%: 15.2, 21.4) và 10.2 tháng (Khoảng tin cậy 95%: 9.6, 11.1) (tỉ số nguy cơ 0.46 (Khoảng tin cậy 95%: 0.37, 0.57), p<0.0001). Tại thời điểm tiến hành phân tích thô thời gian sống; bệnh không tiến triển, có rất ít bệnh nhân tử vong để ước tính hoặc so sánh với thời gian sống còn.

          Tỉ lệ đáp ứng toàn bộ (overall response rate) trên nhóm điều trị bằng Osimertinib và điều trị theo tiêu chuẩn lần lượt là 77% và 69%. Ước tính trung vị thời gian duy trì đáp ứng lần lượt là 17.6 tháng và 9.6 tháng.

          Kết quả nghiên cứu: Trung bình sống bệnh không tiến triển ở nhóm Osimertinib so với nhóm TKI tiêu chuẩn (18,9 tháng so với 10,2 tháng), thời gian duy trì đáp ứng trung bình 17,2 tháng với Osimertinib so với 8,5 tháng trong nhóm sử dụng TKI tiêu chuẩn.

          Kết quả về thời gian sống thêm toàn bộ chưa được công bố tuy nhiên với số liệu ở thời điểm 18 tháng theo dõi nhóm bệnh nhân dùng Osimertinib có tỷ lệ sống còn đến 83% với và 71% trong nhóm TKI chuẩn.

          Đó là những con số ấn tượng chứng minh hiệu quả ưu việt, mang đến thời gian sống thêm lâu hơn cho bệnh nhân của nhóm TKI thế hệ III.


(*) Xem thêm

Bình luận