Kết hợp thuốc Osimertinib với Savolitinib Điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển có đột biến EGFR và đột biến MET mới mắc

04/02/2025

  

Kết hợp thuốc Osimertinib với Savolitinib
Điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển
có đột biến EGFR và đột biến MET mới mắc

 

       Ngày 09 tháng 09 năm 2024

       Tác giả: Ashley Trần

       Đã kiểm tra thực tế bởi: Caroline Seymour

Sự kết hợp Osimertinib (Tagrisso) và Savolitinib (Orpathys) đã chứng minh sự cải thiện có ý nghĩa lâm sàng về tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) so với liệu pháp đơn trị Osimertinib như liệu pháp điều trị đầu tay ở những bệnh nhân mắc ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển đột biến EGFR và đột biến MET mới mắc, theo dữ liệu từ thử nghiệm FLOWERS giai đoạn 2 (NCT05163249) được trình bày tại Hội nghị thế giới về ung thư phổi IASLC 2024.

       Ngày cắt dữ liệu là ngày 28 tháng 5 năm 2024, với thời gian theo dõi trung bình là 8,2 tháng, ORR là 90,5% (95% CI, 69,6% - 98,8%) ở nhóm phối hợp (n = 21) so với 60,9% (95% CI, 38,5% - 80,3%) ở nhóm đơn trị liệu Osimertinib (n = 23). Ở nhóm phối hợp, 19 bệnh nhân (90,5%) đạt được đáp ứng một phần (PR), 1 (4,8%) đạt được bệnh ổn định (SD) và 1 (4,8%) có bệnh tiến triển (PD). Ở nhóm đơn trị liệu, 14 bệnh nhân (60,9%) đạt được PR, 6 (26,1%) đạt được bệnh ổn định (SD) và 3 (13,0%) có bệnh tiến triển (PD). Tỷ lệ kiểm soát bệnh (DCR) lần lượt là 95,2% (95% CI, 76,2% - 99,9%) và 87,0% (95% CI, 66,4% - 97,2%) ở nhóm dùng Osimertinib/Savolitinib và nhóm dùng đơn trị liệu Osimertinib.

       Tiến sĩ Jin-Ji Yang, thuộc Viện Ung thư phổi Quảng Đông tại Bệnh viện Nhân dân tỉnh Quảng Đông (Viện Hàn lâm Khoa học Y khoa Quảng Đông) thuộc Đại học Y khoa Nam Phương tại Quảng Châu, Trung Quốc, cho biết trong bài thuyết trình “Những bệnh nhân dùng Osimertinib kết hợp với Savolitinib cho thấy phản ứng sâu hơn và lâu dài hơn trong suốt thời gian nghiên cứu”.

       Các nghiên cứu tiền lâm sàng đã chỉ ra rằng sự đồng tồn tại của đột biến MET và EGFR được khuếch đại hoặc biểu hiện quá mức làm giảm độ nhạy cảm với EGFR TKI, đây có thể là cơ chế quan trọng trong việc trung gian kháng thuốc chính đối với liệu pháp đơn trị EGFR TKI tuyến đầu.

       Thử nghiệm FLOWERS giai đoạn 2 là một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, ngẫu nhiên, nhãn mở, hai nhóm đối tượng có triển vọng tại Trung Quốc. Tổng cộng, 44 bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên 1:1 để dùng 80 mg Osimertinib một lần mỗi ngày hoặc cùng liều Osimertinib cộng với 300 mg Savolitinib hai lần mỗi ngày. Bệnh nhân được điều trị cho đến khi bệnh tiến triển, độc tính không thể chấp nhận được hoặc các tiêu chí ngừng thuốc khác được đáp ứng. Lưu ý, những bệnh nhân trong nhóm đơn trị liệu Osimertinib được phép chuyển sang nhóm Osimertinib/Savolitinib nếu họ bị tiến triển và được xác nhận mắc bệnh MET bất thường/dương tính sau khi điều trị tuyến đầu. Bệnh bất thường/dương tính với MET được xác định bằng sự biểu hiện quá mức MET bằng phương pháp miễn dịch mô hóa học 3+ ở 75% hoặc nhiều hơn các tế bào khối u và/hoặc khuếch đại MET bằng phương pháp lai huỳnh quang tại chỗ, với GCN MET từ 5 trở lên hoặc tỷ lệ MET/CEP7 từ 2 trở lên hoặc bằng phương pháp giải trình tự mô thế hệ tiếp theo (NGS) MET CN từ 5 trở lên.

       Tiêu chuẩn đủ điều kiện yêu cầu bệnh nhân được xác nhận về mặt mô học là ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển tại chỗ hoặc di căn có đột biến gen EGFR nhạy cảm, chưa từng điều trị bệnh tiến triển, tình trạng hoạt động của ECOG là 0 hoặc 1 và bệnh bất thường/dương tính với MET, cũng như chức năng các cơ quan bình thường.

       Điểm cuối chính được xác nhận là ORR được các nhà nghiên cứu đánh giá theo RECIST v1.1; các điểm cuối thứ cấp bao gồm DCR, thời gian đáp ứng (DOR), thời gian sống không tiến triển (PFS), thời gian sống tổng thể (OS), tỷ lệ OS 12 tháng, độ an toàn và khả năng dung nạp. Các điểm cuối thăm dò bao gồm ORR của những bệnh nhân chuyển từ nhóm đơn trị liệu Osimertinib sang nhóm Osimertinib/Savolitinib sau khi bệnh tiến triển; cơ chế kháng thuốc; và mối tương quan giữa biến thể di truyền động và/hoặc độ thanh thải DNA khối u lưu hành (ctDNA) với đáp ứng điều trị.

      Kết quả bổ sung chứng minh rằng những bệnh nhân được điều trị bằng Osimertinib/Savolitinib cho thấy đáp ứng sâu hơn và bền hơn trong suốt quá trình theo dõi nghiên cứu. Cụ thể, mức giảm kích thước khối u trung bình tốt nhất là –47,7% (phạm vi, –65,9% đến –38,7%) so với –42,2% (phạm vi, –58,0% đến –27,9%) ở nhóm dùng Osimertinib/Savolitinib và nhóm dùng Osimertinib đơn trị. Thời gian theo dõi trung bình tương ứng là 8,5 tháng (phạm vi, 5,5 -11,4) và 7,8 tháng (phạm vi, 6,0-9,6); DOR trung bình là 18,6 tháng (95% CI, không đạt [NR]-không ước tính được [NE]) và 8,4 tháng (95% CI, 6,6-NE).

       Dữ liệu sơ bộ về PFS cho thấy xu hướng có lợi cho nhóm Osimertinib/ Savolitinib so với nhóm đơn trị liệu Osimertinib. PFS trung bình là 53,4 tháng (95% CI, 10,2-NE) so với 9,5 tháng (95% CI, 7,4-NE) ở các nhóm tương ứng (HR, 0,80; 95% CI, 0,19 - 1,51).

       Cả hai nhóm điều trị đều được dung nạp và có thể kiểm soát được, với tác dụng phụ liên quan đến điều trị (TRAE) cấp độ 3 trở lên xảy ra ở 57,1% và 8,7% bệnh nhân dùng Osimertinib/Savolitinib và liệu pháp đơn trị Osimertinib. AE xuất hiện khi điều trị (TEAE) ở bất kỳ cấp độ nào đều xảy ra ở tất cả bệnh nhân ở cả hai nhóm; tuy nhiên, 15 (71,4%) và 6 (26,1%) bệnh nhân gặp phải TEAE cấp độ 3 trở lên ở mỗi nhóm tương ứng. Lưu ý, TEAE dẫn đến giảm liều chỉ xảy ra ở 5 bệnh nhân (23,8%) trong nhóm phối hợp; 5 bệnh nhân (23,8%) gặp phải TEAE dẫn đến ngừng điều trị vĩnh viễn ở nhóm phối hợp. Không có TEAE nào dẫn đến tử vong ở bất kỳ nhóm nào.

       Các TRAE phổ biến nhất bao gồm phát ban (52,4%), giảm tiểu cầu (38,1%), phù ngoại biên (33,3%) và tăng alanine aminotransferase (23,8%) ở nhóm kết hợp Osimertinib/Savolitinib so với tiêu chảy (56,5%), phát ban (52,2%) và ngứa (43,5%) ở nhóm đơn trị liệu Osimertinib.

Yang kết luận “Thử nghiệm FLOWERS/CTONG 2008 là nghiên cứu ngẫu nhiên, có triển vọng giai đoạn 2 đầu tiên báo cáo dữ liệu về hiệu quả và tính an toàn của Osimertinib có hoặc không có Savolitinib như phương pháp điều trị đầu tay ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển đột biến EGFR , MET mới mắc . Sự kết hợp của Osimertinib Savolitinib cho thấy những cải thiện có ý nghĩa lâm sàng”.

       Tài liệu tham khảo

       Yang JJ, Li A, Feng WN, et al. Osimertinib có hoặc không có savolitinib là 1L trong NSCLC tiến triển bất thường MET de novo , EGFR m (CTONG 2008, FLOWERS): thử nghiệm giai đoạn II. Trình bày tại: Hội nghị thế giới về ung thư phổi IASLC năm 2024; Ngày 7-10 tháng 9 năm 2024; San Diego, California. Tóm tắt PL04.10.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  


(*) Xem thêm

Bình luận