Thêm các lựa chọn trong điều trị ung thư phổi dương tính với ROS1 bằng thuốc Repotrectinib

26/12/2024

Thêm các lựa chọn trong điều trị

ung thư phổi dương tính với ROS1

bằng thuốc Repotrectinib

 

 

Ngày 16 tháng 02 năm 2024, của tác giả Edward Winstead

Điều trị bằng Repotrectinib có thể làm nhỏ khối u ở những người bị ung thư phổi tiến triển có khối u dương tính với ROS1. FDA đã phê duyệt loại thuốc này vào năm 2023 như một phương pháp điều trị ban đầu hoặc điều trị tuyến hai cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) dương tính với ROS1.

Ngày 15 tháng 11 năm 2023, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt Repotrectinib (Augtyro) để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển dương tính với ROS1.

Hiện nay, kết quả đầy đủ của thử nghiệm lâm sàng dẫn đến việc phê duyệt Repotrectinib đã được công bố. 

Trong nghiên cứu, gần 80% số người tham gia mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) chưa từng được điều trị bằng thuốc nhắm mục tiêu ROS1 đã có phản ứng, nghĩa là khối u của họ đã nhỏ lại, các nhà nghiên cứu đã báo cáo trên Tạp chí Y khoa New England.

Gần 40% số người tham gia mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) trước đó đã được điều trị bằng một loại thuốc nhắm mục tiêu ROS1 khác, chẳng hạn như Crizotinib (Xalkori) hoặc Entrectinib (Rozlytrek), đã có phản ứng.

Việc FDA chấp thuận Repotrectinib cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển hoặc di căn dương tính với ROS1 bao gồm việc sử dụng thuốc này như một phương pháp điều trị ban đầu và như một phương pháp điều trị tuyến hai ở những người trước đây đã được điều trị bằng thuốc nhắm mục tiêu ROS1. 

Thử nghiệm có tên gọi là TRIDENT-1 đã đánh giá Repotrectinib ở những người có khối u rắn tiến triển, bao gồm 127 người tham gia bị ung thư phổi dương tính ROS1.

Đối với nhiều người trong số này, phản ứng với Repotrectinib kéo dài trong nhiều năm. 

Tiến sĩ Alexander Drilon, thuộc Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, người đứng đầu nghiên cứu TRIDENT-1, cho biết: “Repotrectinib có thể mang lại phản ứng lâu dài cho những bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ROS1, bao gồm cả những người đã và chưa được điều trị bằng liệu pháp nhắm mục tiêu trước đó ”. 

Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng việc điều trị bằng Repotrectinib cũng làm nhỏ các khối u đã di căn đến não, một vị trí thường gặp của di căn phổi.  

Repotrectinib có thể khắc phục một số đột biến ROS1 gây ra tình trạng kháng thuốc 

Một số khối u phổi phát triển đột biến gen ở ROS1 có thể khiến Crizotinib  Entrectinib ngừng hoạt động. Repotrectinib được thiết kế để có hiệu quả chống lại các khối u có các đột biến kháng thuốc này, bao gồm một đột biến có tên là G2032R.

Trong thử nghiệm TRIDENT-1, 10 trong số 17 người tham gia (59%) có khối u có đột biến G2032R đã đáp ứng với Repotrectinib. Thử nghiệm được tài trợ bởi Bristol Myers Squibb, nhà sản xuất thuốc. 

Tiến sĩ Luis Raez, người chỉ đạo Chương trình Ung thư Ngực tại Viện Ung thư Memorial ở Florida và tham gia vào nghiên cứu, đã cho biết: "Mặc dù Repotrectinib có thể khắc phục các đột biến kháng thuốc mà các chất ức chế ROS1 khác không thể khắc phục, nhưng loại thuốc này dường như không có nhiều tác dụng phụ hơn các loại thuốc nhắm mục tiêu ROS1 khác". 

Một số chuyên gia cho biết bước quan trọng tiếp theo sẽ là tiến hành các nghiên cứu có thể giúp bác sĩ xác định cách sử dụng tốt nhất các loại thuốc nhắm mục tiêu ROS1 khác nhau cho từng bệnh nhân.

Mở rộng các lựa chọn để điều trị cho bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển dương tính với ROS1

Sự hợp nhất ROS1 xảy ra khi một phần của gen bị đứt ra và gắn vào một gen khác. Trong các tế bào ung thư phổi có sự hợp nhất ROS1, protein ROS1 được tạo ra do sự hợp nhất này hoạt động quá mức, dẫn đến sự phát triển tế bào không kiểm soát và tạo thành khối u. Sự hợp nhất ROS1 có ở 2% số người được chẩn đoán mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). 

Sự hợp nhất này thường được tìm thấy ở những người ít hoặc không có tiền sử hút thuốc, nhưng chúng cũng được phát hiện ở những người hút thuốc nhiều. 

Repotrectinib ngăn chặn hoạt động của protein hợp nhất ROS1. Mặc dù Crizotinib Entrectinib có thể làm co nhỏ một số khối u phổi bằng hợp nhất ROS1, nhưng những loại thuốc này không hiệu quả đối với các khối u có một số đột biến ROS1 khác khiến protein này hoạt động quá mức. Nhu cầu về các phương pháp điều trị mới đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu phát triển thế hệ liệu pháp nhắm mục tiêu ROS1 tiếp theo.

Repotrectinib, mà bệnh nhân dùng dưới dạng viên nang, là một trong những phương pháp điều trị đầu tiên được chấp thuận xuất hiện từ nghiên cứu này. Ngoài ROS1, loại thuốc này còn nhắm vào các protein khác thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư, bao gồm ALK và một số dạng  protein NTRK.

Phản ứng lâu dài của khối u với Repotrectinib

Trong thử nghiệm TRIDENT-1, 56 trong số 71 người tham gia (79%) chưa từng dùng thuốc nhắm mục tiêu ROS1 trước đó đã có phản ứng kéo dài ít nhất 18 tháng. Thời gian trung bình trước khi bệnh trở nên tồi tệ hơn, được gọi là thời gian sống không tiến triển, là gần 36 tháng.  

Trong số những người đã từng dùng thuốc nhắm mục tiêu ROS1, 21 trong số 56 người tham gia (38%) đã có phản ứng. Thời gian sống không tiến triển trung bình của nhóm này là 9 tháng.

Một số ít người trong cả hai nhóm đều đáp ứng hoàn toàn với phương pháp điều trị, nghĩa là bệnh ung thư của họ biến mất hoàn toàn.

Repotrectinib cũng có vẻ hiệu quả chống lại các khối u phổi đã di căn đến não. Trong số những người tham gia có di căn não, 8 trong số 9 người tham gia (89%) chưa từng được dùng thuốc nhắm mục tiêu ROS1 trước đó đã có khối u não co nhỏ lại. Khối u não co lại ở 5 trong số 13 người tham gia (38%) đã từng được dùng thuốc nhắm mục tiêu ROS1 trước đó. 

Đối với nhiều bệnh nhân, phản ứng điều trị kéo dài ít nhất 1 năm. 

Tác dụng phụ liên quan đến điều trị phổ biến nhất của Repotrectinib là chóng mặt. Tác dụng này có thể được kiểm soát bằng cách giảm liều thuốc hoặc tạm thời ngừng lịch trình điều trị. 

Các tác dụng phụ phổ biến khác bao gồm vị khó chịu trong miệng (Rối loạn vị giác) và cảm giác bất thường, chẳng hạn như nóng rát hoặc châm chích, xảy ra mà không có kích thích bên ngoài (Dị cảm). 3% người tham gia đã ngừng dung Repotrectinib do các tác dụng phụ liên quan đến điều trị. 

Những hạn chế của thử nghiệm lâm sàng TRIDENT-1

Tiến sĩ Raez cho biết một hạn chế của thử nghiệm TRIDENT-1 là Repotrectinib không được so sánh trực tiếp với các loại thuốc nhắm mục tiêu ROS1 khác trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 ngẫu nhiên. Ngoài ra, thử nghiệm bao gồm một số lượng người tham gia tương đối nhỏ, phần lớn là do ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) với sự hợp nhất ROS1 là không phổ biến.

Tiến sĩ Drilon cho biết do không có thử nghiệm nào so sánh trực tiếp các loại thuốc nhắm mục tiêu ROS1 hiện có ở bệnh nhân nên các bác sĩ ung thư nên cân nhắc các yếu tố như độ bền của phản ứng và tính an toàn khi lựa chọn phương pháp điều trị.

"Có vẻ như Repotrectinib có thời gian sống không tiến triển dài nhất trong 3 liệu pháp nhắm mục tiêu ROS1 đã được chấp thuận", ông nói. Và đối với “những bệnh nhân đã dùng thuốc ức chế ROS1, Repotrectinib là lựa chọn duy nhất được chấp thuận hiện nay”./.

 

 

 


(*) Xem thêm

Bình luận