Xét nghiệm di truyền/xét nghiệm đột biến gen trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)

20/06/2021

Xét nghiệm di truyền/xét nghiệm đột biến gen

trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)

 

Ngày 15 tháng 6 năm 2021

Nguồn: Medical New Today

   Tác giả: Mathieu Rees

Người duyệt bài: Raj Dasgupta, MD

kính hiển vi màu xanh của các hạt DNA trên nền đen

MLO_Generic_DNA-Genomics

 

          Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) phát triển khi một số tế bào đột biến trong phổi của một người. Bằng cách kiểm tra các đột biến gen cụ thể, các bác sĩ có thể điều trị riêng cho từng người. Bởi vì một số người có thể đề kháng với một số phương pháp điều trị hơn những người khác, xét nghiệm di truyền có thể cải thiện rất nhiều triển vọng cho những người bị Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC).

          Ung thư phổi bắt đầu từ phổi, nhưng chúng có thể di căn sang các bộ phận khác của cơ thể. Các bác sĩ phân loại các loại ung thư phổi theo kích thước và hình dạng của các tế bào ung thư được nhìn thấy dưới kính hiển vi. 

          + Ung thư phổi là ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC) chiếm khoảng 13%;

          + Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) chiếm khoảng 84%.

          Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) bao gồm:

          + Ung thư biểu mô tuyến;

          + Ung thư tế bào vảy;

          + Ung thư biểu mô tế bào lớn.

 

          Nhiều người được chẩn đoán Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) sau khi nó đã di căn sang các bộ phận khác của cơ thể họ. Những thay đổi trong DNA của các tế bào khối u có thể làm cho ung thư di căn nhanh hơn. Bằng cách hiểu rõ hơn về DNA trong những đột biến này, các bác sĩ có thể xác định phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho một người.

          Theo Tổ chức Ung thư Phổi Hoa Kỳ, tất cả mọi người được chẩn đoán ung thư phổi nên trải qua loại xét nghiệm dấu ấn sinh học này.

          Bài viết này sẽ xem xét các đột biến di truyền phổ biến nhất ở những người bị Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Các xét nghiệm di truyền cho những đột biến của bệnh Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) và những đột biến này ảnh hưởng như thế nào đến các lựa chọn điều trị của một người.

Liquid biopsies timely and effective testing method for NSCLC patients in  Canada

          Đột biến gen là gì?

          Cơ thể con người được tạo thành từ hàng triệu tế bào và các loại tế bào khác nhau có các chức năng khác nhau. Tế bào của con người liên tục chết, phân chia và lớn lên. Các gen trong tế bào của một người kiểm soát quá trình phát triển tế bào này.

          Các gen hoạt động giống như hướng dẫn sử dụng để cơ thể tuân theo để tạo ra chất tế bào mới. Đột biến gen là những thay đổi bên trong gen. Những đột biến này có thể thay đổi các hướng dẫn điều chỉnh quá trình chết, phân chia và tăng trưởng của tế bào.

          Một số đột biến di truyền có thể làm cho các tế bào phát triển theo những cách không kiểm soát và bất thường. Những đột biến này dẫn đến sự phát triển của các khối u, một số có thể là ung thư.

         Đột biến gen là một phần tự nhiên của cuộc sống và nhiều đột biến là vô hại. Tuy nhiên, khi các tế bào trong phổi của một người đột biến theo những cách nhất định, Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có thể phát triển.

          Các đột biến gây Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) này có thể phát sinh ngẫu nhiên. 

          Các gen gây bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC).

         Có nhiều dạng đột biến gen khác nhau. Khi một chuyên gia kiểm tra mẫu mô phổi này, họ sẽ tìm kiếm các đột biến di truyền mà các nhà khoa học biết có thể gây ra bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC).

          Tính đến năm 2020, đã tìm thấy nhiều loại đột biến gây bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) bao gồm các gen sau: EGFR; ALK;ROS1; BRAF; RET; NTRK; HER2; KRAS

 

          Tại sao các xét nghiệm di truyền rất quan trọng trong điều trị bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)?

          Xét nghiệm di truyền có nghĩa là bác sĩ có thể cá nhân hóa kế hoạch điều trị theo đó họ xác định được những đột biến nào trong tế bào của một người.

         Năm 2020, các nhà nghiên cứu đã phân tích gen của 256 người ở Trung Quốc bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Họ phát hiện ra rằng các đột biến gen phổ biến nhất trong số những người tham gia này là gen EGFR; ERBB2 và KRAS. Trong tổng số 256 người tham gia, 63% có hai đột biến trở lên.

         Một người tham gia có một đột biến bất thường ở hai gen. Điều này có nghĩa là một trong những gen có thể phát triển khả năng kháng một số loại thuốc, điều này đã định hướng các bác sĩ sử dụng một loại điều trị khác có thể hiệu quả hơn.

When Non–Small Cell Lung Cancer Spreads | Everyday Health

 

          Các đột biến ảnh hưởng đến điều trị như thế nào?

       Khi bác sĩ biết đột biến di truyền nào có thể gây ra bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) của một người, họ có thể sử dụng chất ức chế tyrosine kinase (TKI)/Thuốc nhắm mục tiêu/Thuốc đích để cung cấp phương pháp điều trị tốt nhất, được cá nhân hóa nhất có thể.

         Chất ức chế tyrosine kinase (TKI) là loại thuốc có thể di chuyển qua màng tế bào. Bằng cách ngăn chặn các gen và protein khác nhau thực hiện công việc của chúng, những loại thuốc này can thiệp vào quá trình phát triển và phân chia của tế bào ung thư.

         Các đột biến di truyền khác nhau đòi hỏi các Thuốc nhắm mục tiêu/ Thuốc đích khác nhau. Mặc dù có nhiều loại thuốc như vậy, nhưng các bác sĩ có xu hướng sử dụng một số loại nhiều hơn những loại khác.

          Một số Thuốc nhắm mục tiêu/ Thuốc đích có thể nhắm vào nhiều đột biến di truyền. Ví dụ: Crizotinib có thể nhắm mục tiêu ROS1 và ALK.

          Các đột biến khác đã được chứng minh là có khả năng chống lại các TKI hiện có hơn. Tuy nhiên, các nhà khoa học đang nỗ lực để phát triển các phương án điều trị hiệu quả hơn.

         Hàn Quốc báo cáo rằng nghiên cứu trước đó không tìm thấy HER2 TKIs là rất hiệu quả. Tuy nhiên, nghiên cứu tương tự cũng lưu ý rằng một số loại thuốc mới hơn có thể nhắm mục tiêu tốt hơn vào gen HER2. Bao gồm:

          - Adotrastuzumab emtansine (T-DM1);

          - Afatinib;

          - Dacomitinib.

          Viện Ung thư Quốc gia (NCI) gần đây đã công bố rằng một chất ức chế KRAS được gọi là Sotorasib có thể làm giảm kích thước khối u ở những người bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến trong gen KRAS.

          Sinh thiết để xét nghiệm di truyền/xét nghiệm đột biến gen

          Theo Viện Ung thư Quốc gia (NCI), các bác sĩ thực hiện xét nghiệm di truyền bằng cách lấy một mẫu mô nhỏ bất thường từ phổi của một người. Đây được gọi là sinh thiết.

          Các bác sĩ làm điều này bằng cách sử dụng một cây kim rất nhỏ để hút mẫu mô phổi. Họ có thể xác định vị trí của mô bằng cách sử dụng công nghệ hình ảnh, như chụp CT hoặc thực hiện một thủ thuật được gọi là nội soi phế quản, là việc đưa một ống soi mềm vào đường thở của bệnh nhân. Đôi khi ống soi có một đầu dò siêu âm ở đầu để giúp xác định vị trí mô ung thư. Các bác sĩ sau đó gửi mẫu đến phòng thí nghiệm để kiểm tra.

          Chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)

          Một khi bác sĩ nghi ngờ rằng các triệu chứng của ai đó có thể là ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), họ có thể sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để chẩn đoán.

          Kỹ thuật hình ảnh có thể giúp các bác sĩ phát hiện khối u phổi và theo dõi sự phát triển của chúng. Chúng có thể bao gồm: Chụp Xquang; Chụp CT; Chụp MRI; Chụp PET/CT.

          Các bác sĩ cũng có thể sử dụng các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm để tìm kiếm các tế bào ung thư. 

         Các xét nghiệm khác trong phòng thí nghiệm yêu cầu các thủ tục xâm lấn hơn để thu thập mẫu để kiểm tra. Ví dụ, bác sĩ có thể kiểm tra mô phổi để tìm tế bào ung thư, bao gồm việc thực hiện sinh thiết phổi hoặc dịch màng phổi.

          Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ

          Bệnh ung thư phổi thường biểu hiện với các triệu chứng sau:

          - Ho kéo dài, có thể tái phát;

          - Ho ra máu;

          - Khó thở

         Trong một số trường hợp hiếm hoi, ung thư phổi cũng có thể gây đau vai, teo cơ tay và hội chứng Horner, một sự gián đoạn các dây thần kinh điều khiển mắt và mặt của một người.

         Các bác sĩ đôi khi có thể nhầm lẫn giữa ung thư phổi với các bệnh có các triệu chứng tương tự như:

         - Viêm phổi;

         - Viêm phế quản;

         - Lao phổi.

         Bệnh ung thư phổi của ai đó cũng có thể phát triển một cách không triệu chứng, ít nhất là trong giai đoạn đầu. Hầu hết các chẩn đoán ung thư phổi phát hiện ra thường ở giai đoạn muộn.

       Tóm lại: Các đột biến gen cụ thể có thể gây ra ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Bằng cách xác định những gen nào đã bị đột biến trong phổi của một người, các bác sĩ có thể chọn một phương pháp điều trị mà họ biết là sẽ hiệu quả nhất. Vì không phải tất cả mọi người bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) đều có các đột biến gen giống nhau, phương pháp điều trị này sẽ khác nhau ở mỗi người.

          Điều trị cá nhân hóa/đối với từng bệnh nhân dựa trên xét nghiệm di truyền đem lại hiệu quả cao đối với một người bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)./.

Thử nghiệm NCCN

Sinh thiết lỏng + Xét nghiệm mô

giúp bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) di căn

có nhiều cơ hội được hưởng lợi từ liệu pháp nhắm mục tiêu

 

Trong một nghiên cứu lâm sàng,  kết hợp cả sinh thiết lỏng và xét nghiệm mô cùng nhau đã tăng khả năng phát hiện các đột biến gen lên thêm 17% so với các đột biến được tìm thấy nếu chỉ xét nghiệm mô

 

Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia ® (NCCN ®) khuyến cáo rằng sinh thiết lặp lại và / hoặc xét nghiệm huyết tương nên được thực hiện nếu sinh thiết ban đầu không đủ ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) di căn

NSCLC di căn không phải là một bệnh đơn lẻ - hãy biết trình điều khiển trước khi bạn điều trị


(*) Xem thêm

Bình luận